Kota Kinabalu
Lịch sử thành phố được ghi dấu bởi việc Công ty Bắc Borneo thuộc Anh thiết lập một khu định cư nhỏ trên đảo Gaya (ngoài khơi Kota Kinabalu ngày nay) vào năm 1882. 15 năm tồn tại của khu định cư chấm dứt bởi vụ cháy vào năm 1897. Hai năm sau đó, người Anh chọn làng chài Api-Api đối diện đảo Gaya để quy hoạch và phát triển thành thị trấn mới mang tên Jesselton. Dưới sự quản lý của Anh, Jesselton đóng vai trò cảng biển chính đồng thời là trung tâm hành chính của West Coast Residency - một trong ba bộ phận của lãnh thổ bảo hộ Bắc Borneo. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Jesselton bị san phẳng gần như hoàn toàn. Từ năm 1946, Jesselton trở thành thủ phủ của Bắc Borneo (sau này là Sabah). Cuối năm 1967, thành phố thay sang tên gọi mới là Kota Kinabalu.
Tại Malaysia, Kota Kinabalu được người dân địa phương yêu mến gọi tắt là KK. Thành phố là cửa ngõ tiếp đón du khách đến thăm Sabah và Borneo. Kota Kinabalu vừa có nhiều điểm hút du khách trong và ngoài thành phố, vừa là một trong những trung tâm công nghiệp và thương mại quan trọng của Đông Malaysia. Hai yếu tố này hợp lại tạo nên một Kota Kinabalu phát triển nhanh hàng đầu đầu Malaysia.
Kể từ thế kỷ XV, diện tích Jesselton là dưới ảnh hưởng của Đế quốc Brunei. Trước đây, vùng Bắc Borneo (sau này đổi tên thành Sabah) là lãnh thổ của Vương quốc Hồi giáo Brunei trong khi vùng bờ Biển Đông bắc Bắc Borneo là lãnh thổ Vương quốc Hồi giáo Sulu. Năm 1865, viên lãnh sự Hoa Kỳ ở Brunei là Claude Lee Moses đạt được hợp đồng thuê Bắc Borneo. Về sau hợp đồng bị bán lại cho lãnh sự Áo ở Hồng Kông là Baron von Overbeck, để rồi cuối cùng lại được chuyển nhượng cho Alfred Dent - người thành lập Công ty Bắc Borneo thuộc Anh (British North Borneo Company - BNBC) vào năm 1882. Năm 1882, BNBC lập một khu định cư nhỏ nằm trên đảo Gaya trong khu vực vịnh Gaya - nơi đã có người Bajau đã sinh sống từ trước. Chính sách đánh thuế nặng nề lên mặt hàng gạo của BNBC bị vị thương nhân địa phương người gốc Bajau là Mat Salleh kịch liệt chống đối. Năm 1897, ông này cùng những người ủng hộ đã cướp bóc và thiêu rụi khu định cư của Anh.
Sir [[Charles Jessel - Phó Chủ tịch BNBC. Tên gọi Jesselton bắt nguồn từ họ của ông Sau vụ việc này, BNBC quyết định dời thị trấn về khu vực vịnh Gatian (nay là vịnh Sepanggar) nhưng nhận thấy rằng địa điểm này không mấy thích hợp. Hai năm sau, tức vào tháng 7 năm 1899, Ủy viên phụ trách đất đai là Henry Walker quyết định chọn khu đất 30 mẫu Anh (12 hecta) ở làng chài Api-Api để làm nơi đóng thị trấn mới. Lý do chọn là vì làng nằm gần tuyến đường sắt Bắc Borneo và có cảng tự nhiên sâu tối đa 24 foot (7,3 m), thuận lợi cho tàu thuyền thả neo. Cuối năm 1899, chính quyền khởi công xây dựng cầu tàu, đê chắn sóng, các tòa nhà chính quyền và các lô cửa hàng. Cũng trong năm 1899, thị trấn mới đổi tên thành Jesselton dựa theo họ của Sir Charles Jessel - Phó Chủ tịch đương nhiệm của BNBC. Bộ máy chính quyền và các chủ cửa hàng dời từ Gatian về Jesselton vào năm 1900. Năm 1905, đường sắt xuyên Borneo nối Beaufort với Jesselton, giúp vận chuyển cao su từ nội địa ra cảng biển này. Dưới sự quản lý của Anh, Jesselton đóng vai trò cảng biển chính đồng thời là trung tâm hành chính của West Coast Residency - một trong ba bộ phận của lãnh thổ bảo hộ Bắc Borneo.
Cảnh tượng đổ nát vì bom của Jesselton trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai. Các vụ ném bom là một phần trong Chiến dịch Borneo do quân Đồng Minh tiến hành vào năm 1945
Đầu thời Chiến tranh thế giới thứ hai, Jesselton bị chính quân đội Anh tàn phá khi họ rút lui khỏi quân đội Đế quốc Nhật Bản. Ngày 6 tháng 1 năm 1942, người Nhật chiếm Jesselton và sau đó lấy lại tên cũ cho thị trấn là Api. Đây là nơi đóng trụ sở Hiến binh Nhật ở Borneo. Lịch sử thời kì này ghi nhận vài cuộc bạo loạn chống lại ách cai trị của Nhật, và một trong số đó diễn ra vào đêm ngày 9 tháng 10 năm 1943 khi Lực lượng Du kích Kinabalu lãnh đạo 300 thanh niên địa phương nổi lên chống Nhật. Cuối năm 1943, lãnh tụ Albert Kwok bị Nhật bắt rồi bị hành hình vào tháng 1 năm 1944. Những người nổi dậy bị đàn áp đẫm máu. Vào cuối Thế Chiến, phần còn lại của Jesselton gánh chịu bom Đồng Minh cả ngày lẫn đêm trong vòng hơn sáu tháng khi họ tiến hành Chiến dịch Borneo (1945), khiến toàn thành chỉ còn đúng ba toà nhà trụ lại, bao gồm Tháp đồng hồ Atkinson, Toà nhà Địa chính và Bưu điện. Chiến tranh chấm dứt vào ngày 10 tháng 9 năm 1945 khi chỉ huy Tập đoàn quân số 37 của Nhật là Trung tướng Baba Masao tuyên bố đầu hàng.
Công ty Bắc Borneo thuộc Anh trở lại trong tư thế gần như phá sản sau cuộc chiến và không có khả năng chi trả khoản tiền khổng lồ để tái thiết Bắc Borneo. Năm 1946, cả Bắc Borneo trở thành thuộc địa của Hoàng gia Anh. Chính quyền mới quyết định chọn Jesselton làm thủ phủ mới của Bắc Borneo (thay cho thủ phủ cũ Sandakan ). Họ lập kế hoạch (về sau tên là "Kế hoạch của Văn phòng Thuộc địa về Tái thiết và Phát triển Bắc Borneo: 1948-1955") nhằm xây dựng lại cơ sở hạ tầng cho Bắc Borneo với chi phí đầu tư 6.051.399 bảng Anh.
Năm 1963, Bắc Borneo cùng Sarawak, Singapore và Liên bang Mã Lai hợp thành Liên bang Malaysia. Bắc Borneo đổi tên thành Sabah và thủ phủ bang vẫn đóng tại Jesselton. Ngày 22 tháng 12 năm 1967, Hội đồng Lập pháp Bang dưới quyền Thủ hiến Tun Mustapha bin Datu Harun đã thông qua dự luật đổi tên Jesselton thành Kota Kinabalu. Ngày 2 tháng 2 năm 2000, Kota Kinabalu được nâng lên cấp thành phố.
Bản đồ - Kota Kinabalu
Bản đồ
Quốc gia - Mã Lai (Ma-lay-xi-a)
Tiền tệ / Language
ISO | Tiền tệ | Biểu tượng | Significant Figures |
---|---|---|---|
MYR | Ringgit (Malaysian ringgit) | RM | 2 |
ISO | Language |
---|---|
ML | Tiếng Malayalam (Malayalam language) |
MS | Tiếng Mã Lai (Malay language) |
PA | Tiếng Punjab (Panjabi language) |
TA | Tiếng Tamil (Tamil language) |
TE | Tiếng Telugu (Telugu language) |
TH | Tiếng Thái (Thai language) |
ZH | Tiếng Trung Quốc (Chinese language) |